Phúc châm là gì? Các công bố khoa học về Phúc châm

Phúc châm là một thuật ngữ trong y học Trung Quốc, được dùng để chỉ một loại thảo dược hoặc chế phẩm từ thảo dược được dùng để điều trị hoặc phòng ngừa bệnh. Tr...

Phúc châm là một thuật ngữ trong y học Trung Quốc, được dùng để chỉ một loại thảo dược hoặc chế phẩm từ thảo dược được dùng để điều trị hoặc phòng ngừa bệnh. Trong y học cổ truyền, phúc châm được coi là một phần quan trọng của việc bảo vệ sức khỏe và duy trì cân bằng trong cơ thể.
Phúc châm là một thuật ngữ được dùng trong y học Trung Quốc để chỉ một hỗn hợp thảo dược hoặc chế phẩm từ các loại thảo dược khác nhau, được sử dụng để điều trị bệnh hoặc giữ gìn sức khỏe.

Các thành phần của phúc châm bao gồm các loại thảo dược, như cây gừng, cây sâm, cây đương quy, cây nhân sâm, cây đẳng sâm, cây bạch truật và nhiều loại thảo dược khác. Mỗi loại thảo dược đóng góp vào công dụng và tác dụng của phúc châm.

Phúc châm được coi là một sự kết hợp độc đáo của các thành phần thảo dược, được chọn lựa và kết hợp theo nguyên tắc của y học cổ truyền Trung Quốc. Nó có thể có tác dụng điều trị và bảo vệ sức khỏe, bổ trợ cho chức năng của cơ thể và cân bằng năng lượng bên trong cơ thể.

Phúc châm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực trong y học Trung Quốc, như điều trị các bệnh về hô hấp, tiêu hóa, tuần hoàn, thần kinh, và cảm lạnh. Ngoài ra, nó cũng được dùng để gia tăng sức đề kháng, tăng cường tạo máu, bồi bổ cơ thể, và giúp phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau.

Qua nhiều năm phát triển, có nhiều loại phúc châm khác nhau, được tùy chỉnh cho từng loại bệnh cụ thể và nhu cầu cá nhân. Tuy nhiên, dùng phúc châm cần được tuân thủ và theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa để đảm bảo hiệu quả và an toàn sử dụng.
Phúc châm là một phương pháp chữa bệnh trong y học cổ truyền Trung Quốc. Nó được sử dụng từ hàng trăm năm nay và có nguồn gốc từ các tài liệu cổ xưa như Đồng y tân truyền và Âm dương thực lục.

Phúc châm tập trung vào việc sử dụng các loại thảo dược và chế phẩm từ thảo dược để điều trị bệnh. Các thành phần của phúc châm được chọn lựa kỹ càng, thường bao gồm từ 10 đến 20 loại thảo dược khác nhau. Mục đích là kết hợp những loại thảo dược có tác dụng tốt và cùng nhau tạo ra một hiệu ứng trị liệu mạnh mẽ.

Trong phúc châm, các thảo dược có thể được sử dụng dưới nhiều dạng khác nhau, bao gồm thuốc nước, thuốc bột, viên thuốc, và cả dưới dạng đắp bôi ngoài da. Cách sử dụng và liều lượng của mỗi thành phần trong phúc châm cũng được xác định cẩn thận để đảm bảo tác dụng điều trị tối ưu và tránh các tác dụng phụ không mong muốn.

Công dụng và tác dụng của phúc châm phụ thuộc vào thành phần của nó. Một số phúc châm có tác dụng hoạt huyết, làm tăng lưu thông máu, giảm viêm, và đẩy nhanh quá trình phục hồi. Các phúc châm khác có tác dụng bồi bổ cơ thể, tăng cường sức khỏe và sức đề kháng, và giúp cân bằng các yếu tố nội tiết trong cơ thể.

Tuy nhiên, việc sử dụng phúc châm cần được thực hiện dưới sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên gia với kiến thức sâu về y học cổ truyền Trung Quốc. Điều này để đảm bảo lựa chọn các thành phần thích hợp cho từng bệnh, xác định đúng liều lượng và phối hợp các thành phần một cách hợp lý. Sử dụng phúc châm không nắm vững có thể gây ra tác động phụ và không đạt được hiệu quả điều trị.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phúc châm":

Trách nhiệm công hay tư? Giáo dục và chăm sóc trẻ nhỏ, bất bình đẳng, và nhà nước phúc lợi Dịch bởi AI
Journal of Comparative Family Studies - Tập 34 Số 3 - Trang 379-411 - 2003

Mặc dù cung cấp giáo dục và chăm sóc trẻ nhỏ (ECEC) đang gia tăng ở tất cả các quốc gia phúc lợi công nghiệp hóa, các sắp xếp thể chế về cung cấp và tài trợ dịch vụ vẫn khác nhau đáng kể giữa các quốc gia có cùng mức phát triển kinh tế. Những chính sách này có thể có những ảnh hưởng quan trọng đến việc giảm bất bình đẳng về thu nhập và thị trường lao động. Trong bài báo này, chúng tôi ghi nhận sự khác biệt trong các sắp xếp thể chế cho ECEC tại mười bốn quốc gia công nghiệp hóa. Sự biến đổi thể chế được liên kết với mức độ trách nhiệm công cộng về chăm sóc trẻ nhỏ khác nhau – giữa các quốc gia, và giữa các nhóm tuổi trong một số quốc gia. Mức độ mà việc chăm sóc được xã hội hóa có những hệ quả cho việc giảm bớt một số hình thức bất bình đẳng xã hội.

#giáo dục mầm non #chăm sóc trẻ nhỏ #bất bình đẳng thu nhập #thị trường lao động #phúc lợi công
Đánh giá sự hài lòng của người bệnh nội trú về chăm sóc dinh dưỡng tại Bệnh viện Phục hồi chức năng Nghệ An năm 2021
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 4 Số 3 - Trang 107-116 - 2021
Mục tiêu: Mô tả sự hài lòng về chăm sóc dinh dưỡng của người bệnh nội trú tại Bệnh viện Phục hồi chức năng Nghệ An năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.Phỏng vấn trực tiếp sự hài lòng về chăm sóc dinh dưỡng của 326 người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện Phục hồi chức năng Nghệ An từ tháng 3/2021 đến 6/2021 bằng phiếu điều tra sự hài lòng về chăm sóc dinh dưỡng có sẵn. Kết quả: Có 85,9% người bệnh hài lòng về cơ sở vật chất; 79,8% hài lòng giao tiếp, ứng xử của nhân viên; 77,9% hài lòng chất lượng và cách chế biến thực phẩm; 100% hài lòng giá thành dịch vụ dinh dưỡng; 70,9% hài lòng chăm sóc dinh dưỡng. Kết luận: Tỷ lệ người bệnh hài lòng về chăm sóc dinh dưỡng của Bệnh viện khá cao.
#Chăm sóc dinh dưỡng #sự hài lòng #Bệnh viện Phục hồi chức năng Nghệ An
TÁC DỤNG GIẢM ĐAU VÀ CẢI THIỆN TẦM VẬN ĐỘNG CỘT SỐNG CỔ CỦA PHÚC CHÂM TRONG ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CỔ VAI CÁNH TAY DO THOÁI HÓA CỘT SỐNG CỔ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng giảm đau và cải thiện tầm vận động cột sống cổ của phúc châm trong điều trị hội chứng cổ vai cánh tay do thoái hóa cột sống cổ. Phương pháp: Nghiên cứu lâm sàng mở, tiến cứu, so sánh trước và sau điều trị có đối chứng. 60 bệnh nhân chia thành 2 nhóm: nhóm nghiên cứu dùng phúc châm kết hợp xoa bóp bấm huyệt, nhóm chứng dùng điện châm kết hợp xoa bóp bấm huyệt. Kết quả: Sau 21 ngày điều trị, ở nhóm nghiên cứu, điểm VAS trung bình giảm từ 5,43 ± 1,17 xuống 2,70 ± 1,39  điểm (p < 0,05); cải thiện rõ rệt tầm vận động cột sống cổ (p < 0,05) và không có sự khác biệt với nhóm chứng (p > 0,05). Kết luận: Phúc châm có tác dụng giảm đau và cải thiện tầm vận động cột sống cổ trong điều trị hội chứng cổ vai cánh tay do thoái hóa cột sống cổ.
#Phúc châm #hội chứng cổ vai cánh tay #thoái hoá cột sống cổ
Nhu cầu chăm sóc phục hồi chức năng và một số yếu tố liên quan đến mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày người bệnh đột quỵ não khi xuất viện tại Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2020
Mục tiêu: Xác định nhu cầu chăm sóc, phục hồi chức năng của người bệnh đột quỵ não khi xuất viện. Đánh giá mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người bệnh đột quỵ não khi xuất viện. Xác định một số yếu tố liên quan đến mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người bệnh đột quỵ não khi xuất viện tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng bao gồm 215 người bệnh đột quỵ não được điều trị ổn định và cho xuất viện tại Bệnh viện Chợ Rẫy, người bệnh có đủ các tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ rõ ràng. Đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu, được thăm khám, phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn, cỡ mẫu thuận tiện. Thang điểm đánh giá các chức năng sinh hoạt hàng ngày theo Barthel. Kết quả và kết luận: Có 91,2% người bệnh có nhu cầu chăm sóc chung, nhu cầu chăm sóc cơ xương khớp nhiều nhất chiếm 91,2% và ít nhất là chăm sóc tiêu hoá đại tiện là 21,9%, tư thế đúng là 58,2%, hô hấp là 55,6%, chăm sóc loét phòng chống loét là 46,7%, tiết niệu là 42,2%, nuôi dưỡng là 38%. Chúng tôi thấy có 87,5% người bệnh có nhu cầu phục hồi chức năng, trong đó nhóm nhu cầu sinh hoạt hàng ngày cao nhất là 76,5%. Sau xuất viện nguyện vọng được hướng dẫn tập tại nhà chiếm 87,5%, mong muốn được phục hồi chức năng cộng đồng là 56,6%, muốn có dịch vụ tập tại nhà 25,2%, và 18,8% muốn được cung cấp thông tin cơ sở phục hồi chức năng tại địa phương. Trong sinh hoạt hàng ngày tỷ lệ phụ thuộc tương đối cao chiếm 66,9%, trong đó phụ thuộc hoàn toàn là 28,8%. Các yếu tố liên quan đến mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người bệnh bao gồm tuổi (p<0,05), giới tính (p<0,05), tình trạng được phục hồi chức năng (p<0,05), bên liệt, tình trạng liệt (p<0,05), co rút cứng khớp (p<0,05), loại đột quỵ.
#Đột quỵ não #Phục hồi chức năng #mức độ độc lập #sinh hoạt hàng ngày #xuất viện
THỰC TRẠNG TỰ CHĂM SÓC VÀ NHU CẦU PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI PHƯỜNG VỊ XUYÊN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 1 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu: mô tả thực trạng tự chăm sóc và xác định các yếu tố liên quan đến nhu câu phục hồi chức năng của người cao tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 384 NCT của Phường Vị Xuyên Thành phố Nam Định. Kết quả: về khả năng thực hiện chức năng sinh hoạt hàng ngày: có 52,1% NCT cần sự trợ giúp về ăn uống; 28,4% NCT cần trợ giúp về thay quần áo; 43,5% NCT cần trợ giúp ngồi; 9,1% NCT cần trợ giúp đứng. Ảnh hưởng của giảm khả năng vận động và sinh hoạt lên NCT: 33,1% NCT bị những cảm giác trên làm gián đoạn công việc và 8,1% NCT bị những cảm giác đau khiến không thể ngủ được. Có 49,7% NCT có nhu cầu về PHCN; những người có khó khăn về vận động và những người có khó khăn về hoạt động sinh hoạt hàng ngày có nhu cầu PHCN cao hơn so với những người không với OR lần lượt là 2,16 và 1,24 (p < 0,05). Kết luận: NCT có nguy cơ giảm khả năng về vận động do vậy cần PHCN nhằm giúp giảm bớt những khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày và có chất lượng cuộc sống tốt hơn. 
#người cao tuổi #khả năng vận động #nhu cầu phục hồi chức năng
SO SÁNH HIỆU QUẢ PHỤC HỒI VẬN ĐỘNG SAU ĐỘT QUỴ CỦA CHÂM CỨU CẢI TIẾN CƯỜNG ĐỘ THẤP VỚI CHÂM CỨU CẢI TIẾN CƯỜNG ĐỘ CAO TRONG PHÁC ĐỒ CHÂM CỨU CẢI TIẾN VẬT LÝ TRỊ LIỆU – THUỐC BỔ DƯƠNG HOÀN NGŨ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Đã có nhiều công bố khoa học về hiệu quả phục hồi liệt sau đột quỵ của Châm Cứu Cải Tiến (CCCT) 1 lần/ ngày (CCCT cường độ thấp). Mục tiêu: so sánh hiệu quả phục hồi vận động và cải thiện sinh hoạt hàng ngày các bệnh nhân liệt sau đột quỵ giữa phác đồ CCCT cường độ thấp + Vật lý trị liệu (VLTL) + thuốc Bổ dương hoàn ngũ thang (BDHNT) với phác đồ CCCT cường độ cao (CCCT 2 lần/ ngày) + VLTL + BDHNT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, mở, có đối chứng, phân bố ngẫu nhiên. Bệnh nhân liệt ½ người sau đột quỵ, đã qua giai đoạn cấp, đạt tiêu chuẩn chọn và không có tiêu chuẩn loại trừ được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm chứng và can thiệp. Tất cả người tham gia được theo dõi và đánh giá 3 lần (trước, sau điều trị 10 ngày và 20 ngày). Kết quả: Cải thiện ở nhóm can thiệp tốt hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Chỉ số Barthel tăng thêm 36,97 điểm so với 21,91 điểm; FMA chi trên tăng 247% so với 56,48%; FMA chi dưới tăng 97,35% so với 66,15%; test 9 lỗ tăng 26,5% so với 10,5%; đi bộ 2 phút có hỗ trợ tăng gấp 26,91 lần so với 23,45 lần sau 20 ngày điều trị. Kết luận: CCCT cường độ cao trong 20 ngày (trong phác đồ phối hợp với tập vận động và thuốc YHCT) có hiệu quả cải thiện phục hồi vận động và cải thiện hoạt động trong sinh hoạt thường ngày tốt hơn CCCT cường độ thấp.
#Châm cứu cải tiến-CCCT #chỉ số Barthel #FMA #test 9 lỗ #test đi bộ 2 phút #liệt ½ người sau đột quỵ
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ CHĂM SÓC PHỤC HÌNH TOÀN HÀM BẮT VÍT TRÊN BỆNH NHÂN ĐÃ CẤY GHÉP IMPLANT ALL ON X
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 531 Số 1B - Trang - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả phục hình toàn hàm bắt vít trên bệnh nhân đã cấy ghép Implant All on X. Đối tượng và phương pháp: Một nghiên cứu được tiến hành trên các bệnh nhân mất răng toàn hàm được cấy ghép Implant All on X và được phục hình theo loại FP3. Có tổng số 31 bệnh nhân tham gia nghiên cứu với 37 phục hình toàn hàm và trên 177 trụ Implant. Kết quả nghiên cứu cho thấy: phần lớn nhóm đối tượng nghiên cứu là nam giới (71,0%); nữ chỉ chiếm 29,0%. Tuổi trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 61,32±10,53 tuổi, với tuổi nhỏ nhất là 27, lớn nhất là 71. Tỉ lệ xuất hiện viêm niêm mạc quanh implant là 78,38% ở cấp độ phục hình, 31,1% ở cấp độ trụ. Kết quả cho thấy, có nhiều yếu tố liên quan tới kết quả chăm sóc phục hình toàn hàm bắt vít trên bệnh nhân cắm ghép Implant All on X như là vật liệu phục hình và thiết kế nền phục hình. Phục hình nhựa cho thấy sự tích tụ mảng bám cao hơn phục hình sứ. Nhóm thiết kế nền phục hình phẳng/lồi, nhẵn có nguy cơ bị viêm niêm mạc trên Implant thấp hơn nhóm có thiết kế nền phục hình dạng yên ngựa, gồ ghề, khi tiến hành kiểm định 1 phía. Tình trạng cặn bám nền phục hình có liên quan đến tình trạng viêm niêm mạc quanh Implant.
#phục hình toàn hàm #Implant All on
Cải thiện khả năng nhận thức của người chăm sóc chính về phục hồi vận đông cho người bệnh đột quỵ.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 1 Số 3 - Trang 10-15 - 2018
Mục tiêu: Đánh giá kết quả thay đổi khả năng nhận thức của người chăm sóc chính về phục hồi chức năng vận động cho người bệnh đột quỵ sau can thiệp giáo dục. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp giáo dục một nhóm có đánh giá trước sau được tiến hành trên 54 người chăm sóc chính của người bệnh đột quỵ điều trị nội trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh từ 01/2017 - 04/2017. Tài liệu can thiệp được xây dựng dựa trên Hướng dẫn của Bộ Y tếvề Phục hồi chức năng sau tai biến mạch não năm 2008. Kết quả: Sau can thiệp, khả năng nhận thức của người chăm sóc chính về phục hồi chức năng vận động cho người bệnh đột quỵ được cải thiện đáng kể. Cụ thể, điểm trung bình kiến thức tăng đến 12,94 ± 1,23 điểm sau can thiệp so với 5,41 ± 2,07 điểm ở trước can thiệp (p < 0,001). Trước can thiệp, tỷ lệ NCSC có kiến thức đạt là 3,7%, không đạt là 96,3%. Sau can thiệp tỷ lệ này tăng lên đáng kể. Số người chăm sóc chính có kiến thức đạt chiếm 98,1%, không đạt là 1,9%. Kết luận: Người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ còn nhận thức hạn chế về phục hồi chức năng vận động cho người bệnh ở trước can thiệp nhưng đã được cải thiện đáng kể sau can thiệp.
#Đột quỵ #kiến thức #phục hồi chức năng vận động #người chăm sóc chính
Đánh giá chăm sóc người bệnh sau phẫu thuật đại trực tràng áp dụng tăng cường hồi phục sau phẫu thuật (ERAS) tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2022
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 6 Số 04 - Trang 44-51 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá chăm sóc người bệnh sau phẫu thuật đại trực tràng áp dụng tăng cường hồi phục sau phẫu thuật (ERAS) tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu trên 30 người bệnh tại Khoa Ngoại tổng hợp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Kết quả: Thời gian nằm viện sau phẫu thuật trung bình 11,4 ± 2,5 ngày. Thời gian có nhu động ruột trở lại sau phẫu thuật là 1,53 ± 0,5 ngày. Tỷ lệ nôn và buồn nôn sau phẫu thuật là 33,3%. Tỷ lệ người bệnh biến chứng sau phẫu thuật 16,6%: 1 người bệnh viêm phổi, 1 người bệnh viêm đường tiết niệu, 3 người bệnh nhiễm trùng vết mổ. Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy tăng cường hồi phục sau phẫu thuật (ERAS) giúp người bệnh sớm hồi phục sức khỏe, rút ngắn thời gian nằm viện và giảm tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật.
#Chăm sóc #sau phẫu thuật đại trực tràng #áp dụng tăng cường hồi phục sau phẫu thuật
Thay đổi kiến thức về phục hồi chức năng vận động cho người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ não tại Bệnh viện Y dược cổ truyền và phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 5 - Trang 87-94 - 2020
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức về phục hồi chức năng vận động của người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ não tại Bệnh viện Y dược cổ truyền và Phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ sau can thiệp giáo dục sức khỏe năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp giáo dục một nhóm có so sánh trước sau cho 50 người chăm sóc chính người bệnh đột quỵ tại Bệnh viện Y dược cổ truyền và Phục hồi chức năng tỉnh Phú Thọ từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2020 về kiến thức phục hồi chức năng vận độngcho người bệnh đột quỵ. Kết quả: Sau can thiệp giáo dục, kiến thức về phục hồi chức năng cho người bệnh đột quỵ của người chăm sóc chính có cải thiện rõ rệt, cụ thể: Điểm trung bình kiến thức của người chăm sóc chính tại các thời điểm ngay sau can thiệp (T2) và trước khi ra viện (T3) lần lượt tăng lên đạt 7,48 ± 2,43 điểm và 9,18 ± 2,83 so với 5,88 ± 2,41 điểm ở thời điểm trước can thiệp (p < 0,001). Tỷ lệ người chăm sóc chính có kiến thức ở mức độ đạt tăng lên đạt 64% tại thời điểm T2 và 76% tại thời điểm T3 so với 38% ở thời điểm trước can thiệp. Kết luận: Kiến thức về phục hồi chức năng vận động cho người bệnh đột quỵ của người chăm sóc chính trong nghiên cứu còn nhiều hạn chế trước trước can thiệp và đã được cải thiện rõ rệt sau can thiệp giáo dục.
#Phục hồi chức năng vận động #người bệnh đột quỵ #người chăm sóc chính #can thiệp giáo dục sức khoẻ.
Tổng số: 42   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5